Bộ phim Mưa Đỏ, dựa trên tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai sau khi ra mắt và được truyền thông nhà nước ca ngợi là một tuyệt tác điện ảnh chiến tranh, nay lại được đưa vào danh sách ứng tuyển giải phim Quốc tế hay nhất của Oscar đầu năm sau. 

Bất chấp những tình tiết tạo dựng với ác ý lộ rõ, lại được giới dư luận viên bao biện rằng “có thể là có thật”, “phim có quyền hư cấu”… mà chính những cựu binh phía Bắc từng tham chiến cũng bác bỏ, Mưa Đỏ như đang được cổ xúy để viết ra một loại lịch sử giả tưởng song song, và mập mờ như lời Chu Lai nói, khi được hỏi về tính xác thực các tình tiết trong tác phẩm của ông ta “tôi không có câu trả lời về vấn đề này”. 

Nhà văn Phan Nhật Nam, cây bút chiến trường lừng danh với nhiều tác phẩm được ghi lại có giá trị như sử ký hiện đại, đã dành ít thời gian để trò chuyện về câu chuyện Mưa Đỏ, và những vấn đề chung quanh.

***

Thưa nhà văn Phan Nhật Nam, phim Mưa Đỏ được nhà nước Việt Nam tài trợ, gần đây được công chiếu, dựa trên tác phẩm của nhà văn quân đội Chu Lai, ngoài việc mô tả sự ác liệt của chiến tranh thì người ta còn có thể thấy cả mục đích của đạo diễn và của cả nhà văn quân đội Chu Lai là muốn nói quân đội Việt Nam Cộng Hòa, tuy cùng là người Việt Nam nhưng vô cùng tàn ác với đồng bào của mình qua việc thảm sát bằng cách “thiêu sống” quân Bắc Việt. 
Nhưng ngay sau khi bộ phim ra mắt, thì phim lại vấp phải những phản ứng của công chúng hiểu biết lịch sử, thậm chí có cả những phản bác từ những cựu binh Bắc Việt. Thưa ông, có một thực tế nào của năm 1972,  mà nhân sự kiện Mưa Đỏ này, mà ông muốn giới thiệu là cho người đọc được biết?

Nhà văn Phan Nhật Nam (PNN): Nỗi thống khổ, đau thương THẬT (của Miền Nam) trong chiến trận 1972 KHÔNG PHẢI CHỈ xảy ra trong 81 ngày ở Cổ Thành Đinh Công Tráng-Thị Xã Quảng Trị Quảng Trị (4 Tháng 18 ngày từ 28/6 – 16/9/1972- theo cách tính của phía của người Cộng sản). 

NỔI THỐNG KHỔ XẢY RA TOÀN MIỀN NAM bởi từ Một nguyên nhân: Tổng Quân Ủy Miền Bắc thực hiện Chiến Dịch Nguyễn Huệ với năm sư đoàn bộ binh 304, 308, 320B, 324, 325 cùng sáu trung đoàn địa phương của Khu 5, ba trung đoàn chiến xa, hai trung đoàn đặc công và một sư đoàn pháo nặng 130 ly cho mặt trận Trị-Thiên. Ba sư đoàn 5, 7, 9, tăng cường sư đoàn Bình Long, hai trung đoàn 202 và 203 chiến xa, được yểm trợ bởi một sư đoàn pháo nặng 130 ly tại mặt trận An Lộc. Hai sư đoàn 320 (Thép) và Sao Vàng, một trung đoàn chiến xa tấn công vào Tân Cảnh, Kontum; hướng tiến được dọn đường bởi một trung đoàn pháo đặt từ rặng Big Mama Mountain, vùng Ba biên giới Việt-Miên-Lào. 

Để có ưu thế chính trị (đối với Mỹ) tại Hội Nghị Paris (bắt đầu từ 5/1968), Hà Nội đã huy động nhiều tân binh cho trận chiến quyết định ở vùng Trị-Thiên (đúng với yếu tố (sinh viên) vai chính trong phim Mưa Đỏ) là thành phần sinh viên, kể cả giảng viên trẻ tuổi từ 30 trường đại học, cao đẳng của Hà Nội.

Nhưng thảm cảnh không phải xảy ra với thành phần quân sĩ (của cả hai phía Bắc-Nam) ở mặt trận Quảng Trị (kể từ 9/9-15/9), mà qua chiến trận dứt điểm ở vùng quanh Cổ Thành. Cảnh chết thật sự xảy ra (sớm hơn, từ ngày 29/4-1/5/1972) trên cây số 9 từ Quảng Trị đường về Huế, vùng Thôn Mai Đẳng, xã Hải Lăng. Mà bản thân tôi đã không thể dùng một chữ nào, một tĩnh từ nào, không thể nói, khóc, la, trước cảnh tượng trước mặt, chỉ có thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù răng vỡ, môi chảy máu tươi… Bởi chung quanh, trước mặt chỉ còn một hiện tượng, một không khí – Chết. Phải. Chỉ có sự chết, cảnh chết bao trùm vây cứng. 

Chín cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá, chết vương vãi từng mảnh thịt, chết từng cụm xương sống, đốt xương sườn, chết lăn lóc đầu lâu, chết rã rời từng bàn tay cong cong đen đúa. “Con Người/Người Miền Nam/Người Quảng Trị” đã bị quân đội Miền Bắc quyết tâm tận diệt –  Được kể lại bởi chính Thiếu Tá Nguyễn Quý Hải (Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 38 Pháo Binh Bông Lau – về sau được thăng cấp Đại Tá viết sách Mùa Hè Cháy/Ngang cấp với Chu Lai viết Mưa Đỏ do công trận trong ngày 1/5/1972): quân Bắc Việt bắn thẳng vào đoàn chạy loạn (chỉ là dân thường gồm đàn bà, trẻ con người già) khoảng giữa Cầu Bến Đá và Cầu Dài/Trường Phước. Nhưng thành tích “giết dân/Thường dân vô tội” của Tiểu Đoàn 2 Pháo/Pháo Đoàn 38 Pháo Binh Quân đội Nhân Dân (QĐND) cũng không phải lần đầu.  

Việc giết chóc dân thường miền Nam đã lặp lại của rất nhiều lần, nhiều nơi, như với 4062 nạn nhân được xác nhận tên tuổi, đếm đủ số ở Huế (31/1-24/2/1968). Chỉ riêng khu nhà tôi số 3, Tô Hiến Thành, Huế cũng có ba nạn nhân bị chôn sống. Tháng 5, Mùa Hè 1972, bản thân tôi đã tận mắt chứng kiến cái chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng Quảng Trị (1/5/1972); chết đêm 11 rạng 12/5 do pháo cộng sản tại Trường Trung Học, Bệnh Viện Bình Long… 

Tóm lại, tuyên truyền của Bắc Việt thì luôn luôn vẽ nên những tội ác của “ngụy”, mà tự quên lãng những tội ác của họ gây nên.

Sau khi phim Mưa Đỏ phát hành, đã có những cuộc tranh luận liên tục – nói chung – của những người dân miền Nam hiểu biết lịch sử đúng, và những người miền Bắc đang sống với lịch sử tuyên truyền. 

Cũng vào thời gian này, nhiều hình ảnh cũ trước năm 1975 được đăng lại trên các trang mạng, giới thiệu cho thấy cách ứng xử tử tế của phía Việt Nam Cộng Hòa đối với tù binh Bắc Việt? Đã làm thay đổi các ngôn luận thù hằn về phía miền Nam. Nhưng cũng có vài bình luận nói lại, cho rằng đây là cách mà chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thực hiện tâm lý chiến chứ không thực lòng. Thưa ông nghĩ sao về các bình luận như vậy?

PNN: Những vu cáo ngược ngạo trong Mưa Đỏ của Chu Lai cũng tương tự trong Mùa Hè Cháy của Nguyễn Quý Hải, hoặc trong phim 40 Năm Sau Mậu Thân (1968-2008) của Lê Phong Lan, hay trong sách, truyện Nỗi Buồn Chiến Tranh/Bảo Ninh; Tiểu Thuyết Vô Đề/Dương Thu Hương; Tai Nạn Nghề Nghiệp/Nguyễn Ngọc Tư… Tất cả đều là những sản phẩm nhằm mục đích tuyên truyền chính trị. Những vu cáo, xuyên tạc nầy có những nguyên nhân:     

Vì họ không biết nguồn gốc (hoặc không muốn biết nguồn gốc thật), của cuộc chiến xâm lược mang kích thước của CHIẾN TRANH QUÝ ƯỚC GIỮA HAI MIỀN BẮC-NAM lại bị đè nặng, trói chặt bởi format: “Chống Mỹ Cứu Nước” trong khi quân đội Mỹ đã rời khỏi VN từ 27/3/1973. Format “Ngụy Quân-Ngụy Quyền” dã man tàn bạo; “Chiến Sĩ Giải Phóng anh dũng, hy sinh”; “Quân Đội Nhân Dân bách chiến bách thắng” luôn nằm trên đầu lưỡi của họ.

Từ những format cố định như vậy, văn học giải phóng (Người viết gốc miền Nam) mới có Chị Sứ, Hòn Đất… và tác giả gốc Miền Bắc “sáng tác” nên: Nói Với Tuổi 20; Nhật Ký Đặng Thùy Trâm; Năm 1975 Họ Đã Sống Như Thế…v..v

Không chỉ viết nên những “tác phẩm” phục vụ tuyên truyền theo chủ trương, giới sáng tác văn học-nghệ thuật CHXHCNVN còn tạo dựng những “tác phẩm lớn” như Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh với trận đánh năm 1967 ở Vùng Cao Nguyên Trung Phần (mở đầu cuốn sách) lúc thiếu niên Bảo Ninh mới được 15 tuổi! Bảo Ninh còn vinh danh Trung Đoàn 27 (Đã bị tan nát trong trận Quảng Trị, 9/1972) qua lần đấu súng (như trong phim cao bồi Mỹ) với lính nhảy dù thuộc Lữ Đoàn 3 tại mặt trận Khánh Dương (3/1975). 

Nhưng buồn cười, Lữ Đoàn 3 là đơn vị đánh trận Hạ Lào (2/1971) KHÔNG HỀ CÓ MẶT TẠI KHÁNH DƯƠNG (3/1975). Chi tiết bịa đặt này cần nêu lên, vì giống như cuốn sách/bộ phim Mưa Đỏ cũng đã rơi vào một vu cáo ác độc (cố tình) qua cảnh tượng: Người của Đại Đội Hắc Báo/Đại Đội Trưởng Sang thiêu sống tù binh cộng sản! Cần nhắc lại  Đại Đội Trinh Sát Hắc Báo/Sư Đoàn 1 Bộ Binh (Đại Úy Trần Ngọc Huế đại đội trưởng Hắc Báo (1968) là bạn đồng Khóa 18 Đà Lạt với Phan Nhật Nam) không hề tham chiến tại mặt trận Quảng Trị (3-9/1972), nay còn sống ở Washington, DC.

Trở lại Vấn Đề Tù Binh Cộng sản mà cuốn sách/bộ phim Mưa Đỏ đề cập, trình bày qua vu cáo thô bạo (một cách sai lạc) vì những lẽ: 

  • Chính phủ VNCH có chính sách Chiêu Hồi/Bộ Thông Tin-Chiêu Hồi với kết quả hơn 200.000 Hồi Chánh Viên.
  • Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH có Huấn Thị Điều Hành đối với Tù Binh CS –Ngăn Cấm mọi hành vi, đối xử thô bạo đối với tù binh theo đúng Quy Ước Tù Binh của Công Ước Quốc Tế. Mọi sai lầm đều bị xét xử trước tòa án, và công luận.  
  • Quân nhân các cấp nơi chiến trường (cho dẫu cấp chỉ huy trưởng đơn vị, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn) không có trách nhiệm, khả năng, phần vụ nào đối với tù binh –Tất cả tù binh được/phải chuyển giao về những cơ quan đặc trách khai thác, thẩm vấn tù binh trong thời gian ngắn nhất.  
  • Do thực hiện đúng các quy định (về tù binh Cộng sản) như trên, nên cuộc trao trả tù binh tại Thạch Hãn (Quảng Trị); Lộc Ninh (Bình Long) trong hai tháng 2, 3/ 1973 đã trả về phía cộng sản 26,508 đếm đủ số thể hiện đúng đắn tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc như Hiệp Định Ba Lê 27/1/1973 đã đề ra hiện thực qua bandroll treo tại địa điểm trao trả Thạch Hãn (Quảng Trị)- Bản thân cá nhân tôi là Nhân Viên Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương/Tiểu Ban Tù Binh là người trực tiếp thực  hiện công tác trao trả (Tù Binh & Hòa Bình – NXB Hiện Đại, 44/5/Công Lý, SG-1974). Ở đâu có sự kiện tra tấn, hành hạ, giết bỏ “thiêu sống tù binh? Tôi sẵn sàng đối chứng.    

Lịch sử nội chiến sau năm 1975, luôn được đưa ra chỉ có một phần chủ quan, hoặc là câu chuyện giả tưởng được dựng nên song song với chiều sự thật. Cụ thể là trong phim Mưa Đỏ, nhiều khán giả đã chỉ ra rằng chuyện phim mô phỏng sự thật, xen lẫn giả tưởng điện ảnh này dường như đã tránh né không nói rõ lý do tại sao quân Bắc Việt lại ở sâu trong vĩ tuyến 17 phía Nam. Ngay cả trong Poster của phim cũng khéo léo giới thiệu những người lính đội mũ tai bèo – Tức quân Mặt trận giải phóng miền Nam, chứ không phải là quân chính quy Bắc Việt?

PNN: Cuộc chiến Xuân-Hè 1972/Chiến Dịch Nguyễn Huệ của miền Bắc, khởi động từ 30/3/1972 với sáu sư đoàn bộ binh/Quân Đội Nhân Dân VN tràn qua sông Bến Hải tấn công Quảng Trị là cuộc XÂM LĂNG QUÂN SỰ QUY MÔ LỚN TỪ MIỀN BẮC/VNDCCH ĐỂ XÂM LƯỢC ĐÁNH MIỀN NAM/VNCH.

Năm 1997, Trung Tướng Lê Tự Đồng, nguyên tư lệnh lực lượng QĐNDVN/Bắc VN (hoàn toàn khác với lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam) tại mặt trận tỉnh Quảng Trị (1972), xác nhận: “Ngoài Trung Đoàn 27/Triệu Hải bị xóa sổ, trung đoàn 48B thuộc Sư Đoàn 320B đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xã QT cũng đã bị thiệt hại hơn 80% quân số”

Tướng Cao Văn Khánh, Tư Lệnh Phó Quân Khu 4 gồm: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế (bao gồm khu vực Quảng Trị -Cổ Thành Đinh Công Tráng) nhận định: “Nhằm tạo sức ép chính trị trên bàn đàm phán Paris, các chỉ huy mặt trận Quảng Trị được lệnh phải tiến công liên tục dưới mưa bom đạn pháo và B-52 rải thảm, bất chấp mọi nguyên tắc chiến thuật. Những tính toán chiến lược ban đầu (đã) bị chệch hướng, dẫn đến Giai Đoạn Hai của chiến dịch (28 Tháng 6- Ngày N Chiến Dịch tái chiếm QT của QĐI/VNCH – 15 Tháng 9, 1972) đẫm máu với thương vong cao nhất trong lịch sử chiến tranh của QĐNDVN”

Tổng kết chiến dịch Mùa Hè 1972, Bộ Tổng Tham Mưu QĐND (mã số KHTM/1972-BQP) viết: ”Chúng ta đã thiệt hại nặng nề nhất kể từ sau Tổng Tấn Công Mậu Thân 1968. Ước chừng 225 xe tăng cùng pháo hạng nặng bị phá hủy. Hy sinh 10.767, mất tích 1.550, bị bắt 98, bị thương 27.573, đào lạc ngũ 5.957, đầu hàng (về với VNCH) 136. Tổng cộng là 46.081”. Thiệt hại binh lực có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến”. 

Đáng nói, thiệt hại ở mặt trận Quảng Trị còn nêu chi tiết: “Chiến sỹ hy sinh hầu hết là sinh viên các trường đại học, rất nhiều sinh viên Hà Nội xung phong vào chiến trường.” Điều này là đúng với vai chính trong Mưa Đỏ.

Cuối cùng, tháng 9/2025, qua bài viết của Lưu Trọng Văn: Đại Tá Hoàng Thiện, chính ủy Trung Đoàn 95 (Đơn vị chính quy Miền Bắc, nỗ lực chính tại Mặt Trận QT) kể lại: “Tôi đã ba lần gửi 3 bức thư về sư đoàn, nói rõ thực trạng tình hình địch, ta… Lá thư thứ 3 tôi có nói: Cần phải quý trọng tính mạng của người chiến sĩ: “hành quân chết, vượt sông chết, tập kết chưa có công sự chết, lạc vào địch chết .…Thế là tôi được mang bản án đầu tiên là sợ địch, hữu khuynh, không dám tấn công, sợ chết !”

Như vậy, người Lính Miền Bắc chết vì đâu? Trận đánh chiếm Sàigòn 30/4/1975 là do Lê Đức Thọ, Bí Thư Chiến Dịch, Văn Tiến Dũng Tư Lệnh chiến dịch chỉ huy 16 Sư Đoàn Bộ Binh Cộng Sản Bắc Việt! Ở đâu là “chiến sĩ giải phóng”? Ai giải phóng Ai?

Ngày 15/5/1975 trong “diễu binh” mừng “Đại Thắng Mùa Xuân” tại Sài Gòn, trên khán đài trung ương “Bộ Trưởng Tư Pháp Trương Như Tảng/Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam” hỏi Văn Tiến Dũng: “Những Sư Đoàn 5,7,9 (của Lực Lượng Vũ Trang MTGPMN) đâu rồi không thấy?” Dũng ngạo mạn trả lời: “Biên chế tối hôm qua (vào Quân Đội Nhân Dân Miền Bắc) hết rồi!” Chỉ sau một thời gian ngắn, Tảng vượt biên qua Pháp.   

Tù binh Bắc Việt vị thành niên được tổ chức cho đi học, ảnh do AFP ghi lại năm 1969

Với phim Mưa Đỏ, bất kỳ người nào hiểu biết về sự thật Việt Nam cũng hiểu được rằng chính sách của Nhà nước hôm nay như quyết định vẫn chọn Việt Nam Cộng Hòa là kẻ thù chính trong chính sách tuyên truyền, mặc dù thể chế đó đã không còn tồn tại. Tinh thần bộ phim có cái gì đó nó khác biệt, và đi ngược lại với chủ trương hòa hợp và hòa giải thống nhất dân tộc mà lâu nay của các lãnh đạo Việt Nam, mà chúng ta vẫn được nghe. 
Bản thân việc chọn kẻ thù là một lực lượng đã không còn tồn tại, so với việc tránh né gọi tên kẻ thù thực chất hôm nay là Trung Quốc – vẫn luôn nói chuyện xấc xược, bức hại ngư dân, lấn chiếm dần biển, đảo, đất liền – cùng việc cổ xúy cho cắn xé trong lòng dân tộc như vậy sẽ đem lại được điều gì, thưa ông?

PNN: Để trả lời câu hỏi này, tôi có nhận định như sau:   

Giới viết văn, làm nghệ thuật trong nước (cụ thể đối với thành phần sinh trưởng nơi Miền Bắc trước 1975) ĐÃ KHÔNG BIẾT: Chiến Tranh VN/Ba nước Đông Dương có nguyên nhân THẬT từ đâu? Do ai?  Đấy là từ Hội Nghị Liễu Châu (3-5/7/1954) với Quyết Định từ Mao Trạch Đông; Là từ Nghị Quyết 15 của Trung Ương Đảng CSVN, 1959 – Hiện thực qua Đại Hội III tại Hà Nội, 9/1960- Thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam 20/12/1960. Sau quá trình này Nghị Quyết Vịnh Bắc Bộ 7/8/1964 của Lưỡng Viện Quốc Hội Mỹ, đổ bộ quân Mỹ lên Đà Nẵng (3/1965) là một HẬU QUẢ – HỆ QUẢ CHIẾN LƯỢC TẤT YẾU.

Cuộc “diễu binh” với những đoàn nữ binh xanh đỏ kiểu phim bộ Hồng Kông trong ngày 30/4/2025 tại Sài Gòn, ngày 2/9/2025 tại Hà Nội, rồi cuốn phim Mưa Đỏ trình chiếu ở trong nước… không hề là ngẫu nhiên xuất hiện mà nằm trong một chiến lược lớn qua sự kiện Đảng, nhà nước CS điều chỉnh Hiến Pháp 2013, tổ chức chính quyền địa phương (mới), thay đổi địa giới, cơ cấu hành chánh cả nước, bỏ cấp Quận, Huyện – Đơn vị vị hành chánh của xã hội Người Việt tồn tại qua nhiều thế kỷ từ thời các Vương Triều Đại Việt, Quốc Gia Việt Nam, VNCH, kể cả chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Miền Bắc  (2/9/1945- 2/7/1976) và CHXHCN sau 2/7/1976 – Tất cả nhằm củng cố quyền lực của Trung Ương Đảng CS đang được “Công An Hóa” với Tổng Bí Thư Tô Lâm đang chuẩn bị, hoàn tất mọi điều kiện chính trị-đảng trị nhằm trở thành một “lãnh đạo trọn đời” mẫu hình của Kim Jong Un của Bắc Hàn hay Tập Cận Bình nơi Bắc Kinh! 

Từ mục tiêu chiến lược (Lớn) kể trên, nhà nước cộng sản Bắc Kinh không phải là một “kẻ thù cần đề phòng” nhưng là một mẫu hình noi theo, mong được thực hiện. Vấn đề rồi sẽ được sáng tỏ hơn về sau. 

Kết Từ.  

Chiến Tranh Việt Nam đã chấm dứt từ 1975. NHƯNG NỖI ĐAU VN VẪN CÒN NGUYÊN. 

Nỗi Đau không của riêng ai, Nam/Bắc, Dân/Lính như qua lời Thơ sau đây của Lê Bá Dương 

Đò lên Thạch Hãn, ơi… chèo nhẹ,

Đáy sông còn đó, bạn tôi nằm.

Có tuổi hai mươi thành sóng nước,

Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm.

Bài thơ được sáng tác Ngày 27/7/1987 nhằm tưởng nhớ những Người Lính Miền Bắc đã ngã xuống bên bờ, dưới sâu dòng sông Thạch Hãn trong trận chiến Quảng Trị-Cổ Thành (28/6 – 16/9/1972) 

Bài thơ ban đầu có tên Lời Người Bên Sông, với nội dung:

Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ,

Đáy sông còn đó bạn tôi nằm…

Và nay tôi chấp bút thêm lời,

Một bận chiến chinh bao kẻ chết

Còn chăng rên xiết Mối Thương Tâm. 

Hãy biết Đau. Nỗi Đau Việt Nam!

Người Lính VNCH

Tháng 10/2025, tại Mỹ.

Bài viết liên quan